Địa tầng Sa thạch đỏ cổ

Vì sa thạch đỏ cổ bao gồm chủ yếu là đá có nguồn gốc trên cạn, nó thường không chứa các hóa thạch biển, điều này chứng minh sự hữu ích trong sự so sánh tương quan của một biểu hiện đá với một biểu hiện đá khác, cả giữa và trong phạm vi các bồn trầm tích riêng lẻ. Theo đó, các tên gọi tầng bậc địa phương đã được nghĩ ra và chúng vẫn được sử dụng ở một mức độ nào đó cho đến ngày nay kể cả khi ngày càng có nhiều tên gọi tầng bậc quốc tế được sử dụng. Vì vậy, trong bồn trầm tích Anh-Wales, thường có các dẫn chiếu tới các tầng như tầng Downton, tầng Ditton, tầng Brecontầng Farlow trong các tài liệu địa chất cũ. Sự tồn tại của một số bồn trầm tích khác biệt trên khắp nước Anh đã được thiết lập.[1]

Bồn Orcadie

Bồn Orcadie trải dài trên một khu vực rộng lớn ở đông bắc Scotland và các vùng biển lân cận. Nó bao gồm vịnh hẹp Moray và các vùng đất liền kề, Caithness, Orkney và một phần của Shetland. Phía nam của vịnh hẹp Moray hai bồn phụ riêng biệt được xác nhận tại Turriff và tại Rhynie. Bồn này dày hơn 4 kilômét (13.000 ft) ở các vùng của Shetland. Bồn chính được coi là bồn nội núi do sự tách giãn lớp vỏ trái đất liên quan đến sự mở rộng hậu Caledonia, có thể đi kèm với đứt gãy trượt dọc theo hệ thống đứt gãy Great Glen.[5]

Argyll

Có một sự phân tán các lộ vỉa của sa thạch đỏ cổ xung quanh Oban và đảo Kerrera trên bờ biển Cao nguyên Scotland, khu vực này đôi khi được gọi là thành hệ sa thạch Kerrera. Thành hệ đá này dày tới 128m trong khu vực điển hình của nó và bao gồm các sa thạch và cuội kết màu xanh lục và đỏ, thường chứa các mảng đá vụn lớn hình elip khá thuôn tròn (bề ngang 10–30 cm hoặc 4-12 inch), đi kèm với các loại bột kết, đá bùn và đá vôi.[6] Ở đảo Kerrera, các tảng lăn cuội kết andesit nằm không chỉnh hợp trên các đá bảng pyrit màu đen Dalriada (đá bảng Easdale) của phân nhóm Easdale. Ở Oban chỉ đơn thuần là sự tiếp xúc xói mòn kết hợp các mảnh vụn của đá bảng trong một cuội kết ở đáy. ORS xung quanh Oban được coi là có tuổi từ Silur muộn nhất (tầng Pridoli) đến Devon sớm nhất. Chúng được diễn giải như là những quạt bồi tích lấp đầy một bồn trầm lắng từ phía đông và đông bắc.[7] Các khối sót ngoài nhỏ xuất hiện gần Taynuilt và hai bên hồ Loch Avich.[8] Các đôi tích đặc biệt rõ ràng trên đảo Kerrera nơi chúng tạo thành đá móng ngang qua một nửa của hòn đảo.[9] Chúng được che phủ bởi peperit và các dung nham cao nguyên Lorne bazanandesit. ORS trên đảo Kerrera và các địa phương cô lập ở xung quanh Oban được biết đến nhờ các hóa thạch của chúng, đặc biệt là cá.[10]

Sa thạch đỏ cổ tại Gardenstown, Aberdeenshire.

Thung lũng Midland ở Scotland

Địa hào thung lũng Midland được xác định bởi Đứt gãy Ranh giới Cao nguyên ở phía bắc và Đứt gãy Cao địa Nam bộ ở phía nam chứa không chỉ là một lượng đáng kể các loại đá trầm tích sa thạch đỏ cổ mà còn cả đá magma ở độ tuổi này gắn với hoạt động mở rộng của núi lửa. Có một phần trồi lên liên tục dọc theo Đứt gãy Ranh giới Cao nguyên từ Stonehaven trên bờ biển Bắc đến Helensburgh và xa hơn tới Arran. Một chuỗi các phần trồi lên ít kết nối hơn xuất hiện dọc theo đường Đứt gãy Cao địa Nam bộ từ Edinburgh đến Girvan. Sa thạch đỏ cổ thường xuất hiện cùng với các thành hệ cuội kết, một trong những lộ thiên vách núi đá đáng chú ý là Khu bảo tồn thiên nhiên Fowlsheugh, Kincardineshire.

Biên giới Scotland

Một chuỗi các phần trồi lên xuất hiện từ East Lothian về phía nam qua Berwickshire. Bất chỉnh hợp Huton nổi tiếng tại mũi Siccar xuất hiện trong bồn này - xem Lịch sử nghiên cứu dưới đây.

Bồn Anh-Wales

Bồn tương đối lớn này trải dài trên phần lớn nam Wales từ miền nam Pembrokeshire ở phía tây qua Carmarthenshire đến PowysMonmouthshire và qua phía nam các vùng đất biên giới xứ Wales, đặc biệt là vào Herefordshire, WorrouershireGloucestershire. Các khối sót ngoài ở Somerset và bắc Devon hoàn thành phạm vi của bồn này.

Ngoại trừ phía nam Pembrokeshire, tất cả các phần của bồn này được thể hiện bằng một loạt các thạch học được gán cho Hạ Devon và Thượng Devon, sự tiếp xúc giữa hai bên là bất chỉnh hợp và đại diện cho sự gián đoạn hoàn toàn của bất kỳ phân tập Trung Devon nào. Các thành hệ thấp nhất thuộc độ tuổi Silur muộn, chúng là thành hệ sa thạch lâu đài Downtonthành hệ đá bột Raglan nằm trên, ngoại trừ ở Pembrokeshire, nơi một loạt các thành hệ phức tạp hơn được công nhận. Ở phía đông của bồn, đỉnh của đá bột Raglan được đánh dấu bằng một trầm tích vôiđá vôi Bishop's Frome.[11] Thành hệ Devon thấp nhất là thành hệ St Maughans, bản thân nó được bao phủ bởi thành hệ Brownstones mặc dù với sự xen vào của thành hệ Senni trên phần lớn khu vực của nó. Phân tập Thượng Devon khá mỏng hơn và bao gồm một loạt các thành hệ bị hạn chế nhiều hơn ở bên. Trong Brecon Beacons, thành hệ móng Cao nguyên bị che phủ bất chỉnh hợp bởi thành hệ Grey Grits mặc dù ở xa hơn về phía đông thì các bộ phận này được thay thế bởi Nhóm Cuội kết Thạch anh, tự bản thân nó được chia thành nhiều thành hệ khác nhau.

Sa thạch đỏ cổ dưới tại Yesnaby, Orkney, một loại sa thạch trầm tích gió phân lớp xiên chéo.

Pembrokeshire

Phân tập ở Pembrokeshire khác với phần chính của bồn và rơi vào hai phần.[12]

Ở Bắc Pembrokeshire về phía bắc đứt gãy Ritec, cả ORS giữa và trên đều bị thiếu chỉ có ORS dưới; nó được chia thành nhóm Milford Haven sớm hơn, bao gồm các thành hệ theo thứ tự tăng dần là Red Cliff, Sandy Haven và Gelliswick Bay, và nhóm Cosheston muộn hơn, một lần nữa theo thứ tự tăng dần, thành phần của nó là các thành hệ Llanstadwell, Burton Cliff, Mill Bay, Lawrenny Cliff và New Shipping. Chúng tương ứng với các thành hệ Temeside, đá bột Raglan và St Maughans của phần trung tâm và phần đông của bồn.

  • - Thiếu ORS giữa và trên -
  • Nhóm Cosheston
    • Thành hệ New Shipping
    • Thành hệ Lawrenny Cliff
    • Thành hệ Mill Bay
    • Thành hệ Burton Cliff
    • Thành hệ Llanstadwell
  • Nhóm Milford Haven
    • Thành hệ Gelliswick Bay
    • Thành hệ Sandy Haven (bao gồm vỉa Townsend Tuff)
    • Thành hệ Albion Sands / Thành hệ Lindsway Bay
    • Thành hệ Red Cliff

Ở phía nam Pembrokeshire về phía nam đứt gãy Ritec, theo thứ tự tăng dần, ORS dưới được đại diện bởi các thành hệ Freshwater East, Moors Cliff và Freshwater West. Chúng bị che phủ bất chỉnh hợp bởi thành hệ Cuội kết Ridgeway. ORS giữa bị thiếu trong khi ORS trên được thể hiện bằng các thành hệ Gupton và West Angle.

  • Nhóm sa thạch Skrinkle
    • Thành hệ West Angle
    • Thành hệ Gupton
  • - phần của ORS giữa bị thiếu -
  • Thành hệ Cuội kết Ridgeway
  • Nhóm Milford Haven
    • Thành hệ Freshwater West (bao gồm Đoạn đá bột đảo Rat và Đoạn sa thạch Conigar Pit)
    • Thành hệ Moors Cliff (bao gồm Đoạn trầm tích vôi mũi Chapel và Vỉa Townsend Tuff)
    • Thành hệ Freshwater East

Thành hệ Freshwater East và thành hệ Red Cliff tương ứng ở bắc Pembrokeshire, đều có niên đại Silur muộn.[13]

Anglesey

Một bồn trầm tích nhỏ và riêng biệt tồn tại ở đây, nơi cả trầm tích bồi tích và trầm tích hồ được ghi nhận. Cả ORS giữa và trên đều bị thiếu nhưng ORS dưới được biểu diễn, theo thứ tự tăng dần, bởi các thành hệ Bodafon, Traeth Bach, Porth y Mor và Traeth Lligwy. Trầm tích vôi cũng được ghi nhận đại diện cho đất giàu cacbon được phát triển giữa các giai đoạn lắng đọng trầm tích. Ngày nay, phần trồi lên chiếm một vùng hẹp từ vịnh Dulas trên bờ biển phía đông bắc Anglesey, về phía nam đến thị trấn Llangefni.[1][14]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sa thạch đỏ cổ http://geowords.com/histbookpdf/a22.pdf //citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/summary?doi=10.1.1... http://www.gly.uga.edu/railsback/BS-CC.html //doi.org/10.1144%2Fgsjgs.149.1.0027 //doi.org/10.1144%2Fsjg2012-452 http://jgs.geoscienceworld.org/cgi/content/abstrac... http://www.james-hutton.org/One/Geology/05.htm http://sjg.lyellcollection.org/lookup/doi/10.1144/... http://nagt.org/files/nagt/jge/abstracts/Montgomer... //www.worldcat.org/issn/0036-9276